Cách xưng hô với Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn | |
---|---|
Danh hiệu | Đức Giám mục |
Trang trọng | Đức Giám mục, Đức Cha |
Thân mật | Cha |
Khẩu hiệu | "Hết tình nhẫn nhục và tận tâm giáo huấn" |
Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn (1876 — 1948) là Giám mục người Việt tiên khởi của Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu và cũng là Giám mục người Việt thứ hai của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Khẩu hiệu Giám mục của ông là: "Hết tình nhẫn nhục và tận tâm giáo huấn". Ông không chỉ là một Giám mục Công giáo mà còn là một nhà đạo đức, nhà văn hóa-giáo dục, nhà sư phạm lỗi lạc của Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX.
Ông tên thật là Hồ Ngọc Ca, sinh ngày 3 tháng 12 năm 1876, tại xứ đạo Ba Châu (làng Vĩnh Lưu, xã Phú Lương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên), là con đầu của ông Giuse Hồ Ngọc Thi và bà Anna Nguyễn Thị Đào. Khi rửa tội, ông lấy tên thánh là Đôminicô (Dominique), nay gọi là Đa Minh. Ông còn có một người em trai tên là Hồ Ngọc Vịnh.
Thân thế họ nội của ông ở làng Cổ Thành, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị không theo Công giáo. Cha ông vì hoàn cảnh riêng, vào lập nghiệp ở Thừa Thiên và cải đạo tại đây. Lúc sinh thời, cha của ông làm nghề đông y, kiêm nghề giáo làng, vì thế ông được thừa hưởng từ nhỏ một sự giáo dục cơ bản về chữ Hán cũng như các kiến thức y dược và tinh thần yêu mến văn hóa quê hương. Điều này về sau đã có ảnh hưởng lớn đến vị Giám mục và nhà văn hóa Hồ Ngọc Cẩn trong tương lai.
Do cha mất sớm, mẹ đem ông và người em trai về sống tại quê ngoại ở làng Trường An (còn có nghệ danh là Phường Đúc, vì làng này chuyên nghề đúc đồng nổi danh xứ Huế), họ đạo Trường An, giáo xứ Thợ Đúc, thuộc huyện Hương Thủy, cùng tỉnh Thừa Thiên. Năm 1889, ông vào học tại Tiểu chủng viện An Ninh, ở Cửa Tùng, Quảng Trị. Năm 1891, ông được Linh mục Eugène Marie Joseph Allys (tên Việt là Lý, về sau trở thành Giám mục Hạt Đại diện Tông Tòa Huế), Linh mục Chánh xứ Phú Cam (Huế) nhận làm con nuôi. Ngày 5 tháng 8 năm 1896, ông vào học tại Đại chủng viện Phú Xuân - Huế. Năm 1898, ông đổi tên thành Hồ Ngọc Cẩn.
Ngày 20 tháng 12 năm 1902, ông thụ phong chức Linh mục lúc mới 26 tuổi. Từ năm 1903 đến 1906, ông nhậm chức Linh mục phó giáo xứ Kẻ Văn (nay thuộc xã Hải Tân, huyện Hải Lăng, Quảng Trị). Từ năm 1907, ông là linh mục chánh xứ Kẻ Hạc (nay thuộc xã Vạn Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình.
Tháng 9 năm 1910, ông được cử làm giáo sư tại Tiểu chủng viện An Ninh và là một giáo sư người Việt Nam đầu tiên giảng dạy tại chủng viện Công giáo. Ông dạy các môn Latin, Pháp, Toán, Việt với một phương pháp sư phạm rất tiến bộ, dễ hiểu, dễ nhớ, trình bày rất rõ ràng, sáng sủa khiến cho học trò rất thích thú.
Năm 1923, ông được bổ nhiệm làm cha Sở họ đạo Trường An, cùng với Giám mục Eugène Allys Lý xây dựng Dòng Thánh Tâm (Institution Coeur) tại Trường An (Huế). Năm 1924, ông được cử làm Bề trên tiên khởi của Dòng.
Ngày 11 tháng 3 năm 1935, Giáo hoàng Piô XI ký sắc phong ông làm Giám mục phó Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông tòa Bùi Chu. Lễ tấn phong Giám mục hiệu tòa Zenobis diễn ra vào ngày 29 tháng 6 năm 1935 tại nhà thờ Phú Cam, Huế, do Khâm sứ Columban Dreyer chủ phong với sự phụ phong của hai Giám mục Chabanon Giáo (Hạt Đại diện Tông Tòa Huế) và GB Nguyễn Bá Tòng (Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm), cùng với sự chứng kiến của cựu Thượng thư Nguyễn Hữu Bài. Ông trở thành vị Giám mục người Việt thứ 2 sau Giám mục Gioan Baotixita Tòng và là Giám mục đầu tiên được tấn phong trong nước. Sau khi tấb phong, ông lấy tên thánh Giuse, vì thế trong một số tài liệu ghi tên đầy đủ của ông là Giuse Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn (Giuseppe Dominique Hồ Ngọc Cẩn).
Ngày 17 tháng 6 năm 1936, ông chính thức trở thành Giám mục Việt Nam tiên khởi của Hạt Đại diện Tông tòa Bùi Chu, kế vị Giám mục Pedro Muzagorri Trung vừa qua đời.
Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động Tuần lễ Vàng, khuyến khích người dân đóng góp cho ngân sách quốc gia nhằm tháo gỡ sự khó khăn tài chính của đất nước.[1] Ông cũng tích cực vận động giáo dân tham gia Tuần lễ Vàng ủng hộ cho chính phủ. Bản thân ông cũng đóng góp với lời phát biểu đầy cảm động được ghi nhận:
- "Tôi có mấy nhời thay mặt cả hàng giáo sĩ cảm ơn Ủy ban đã có lời mời chúng tôi đến dự Tuần lễ Vàng này. Thật như bài diễn văn chúng tôi ai nấy vừa nghe. Ai là người có vàng lúc này không nên ẩn giấu, phải đưa ra để chung nhau đắp nền độc lập cho Tổ quốc… Phần tôi khi thụ phong giám mục, có một đấng biếu tôi Thánh giá này và dây đeo thực là vàng. Nhưng tôi nghĩ, người đời trên có giời che, dưới có đất chở. Trên phải phụng sự Thiên Chúa, dưới cũng không quên Tổ quốc. Vậy trong lúc này, tôi cũng vui lòng chia của quý này làm hai. Thánh giá tôi giữ lấy để phụng sự Thiên Chúa, dây đeo tôi để phụng sự quốc gia".[2]
Trong buổi lễ tấn phong Giám mục Phát Diệm ngày 28 tháng 10 năm 1945 cho giám mục Tađêô Lê Hữu Từ, ông đã phát biểu:
- "Cho tới nay, nước Việt Nam đã có bốn người được phong giám mục. Điều lý thú là mỗi người đều mang họ một anh hùng dân tộc. Đức cha Nguyễn Bá Tòng mang họ vị anh hùng Nguyễn Huệ. Kế đến Đức cha Ngô Đình Thục mang họ Ngô Quyền. Hôm nay Đức cha Lê Hữu Từ mang họ Lê Lợi. Còn tôi mang họ... Chủ tịch Hồ Chí Minh".[3]
Ngày 8 tháng 9 năm 1946, ông cho lập dòng tu Chị em con Đức Mẹ Mân côi Bùi Chu (còn gọi là Dòng Nữ Ðức Mẹ Mân côi).
Ngày 27 tháng 11 năm 1948, ông qua đời sau 13 năm cai quản Hạt Đại diện Bùi Chu, hưởng thọ 72 tuổi và được an táng tại nhà thờ chính tòa Bùi Chu. Khi hay tin ông qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện văn chia buồn cho giáo dân thuộc Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu: "Tôi rất lấy làm đau đớn được tin Đức giám mục Hồ Ngọc Cẩn đã từ trần. Tiếc rằng vì chiến sự, tôi không thể về dự đám tang của Đức giám mục, tôi nhờ Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu III thay mặt tôi đến dự lễ và chia buồn cùng đồng bào Công giáo địa phận Bùi Chu".[4]
Trong dịp lễ tang ông, có ông Nguyễn Văn Ninh, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Nam Định với Xứ ủy thay mặt Hồ Chủ tịch cùng các cơ quan chính quyền địa phương, chính quyền còn cử một đội quân danh dự túc trực bên linh cữu của Giám mục. Về phía Phật giáo có đại biểu Thượng tọa Thích Bảo Long cùng nhiều vị tăng ni Phật tử tới tham dự thánh lễ tiễn đưa Giám mục về nơi an nghỉ cuối cùng. Thi hài Giám mục an táng tại Nhà thờ chính tòa Bùi Chu
Không chỉ là một Giám mục được giáo dân yêu quý, ông còn là tác giả nhiều sách đạo và sách học, như các sách về ngữ pháp Latin và tiếng Pháp, sách giáo khoa Toán và Văn học Việt Nam.
Trong thời gian 10 năm là Bề trên của Dòng Thánh Tâm, ông đã cho mở 4 trường tiểu học bổ túc do các sư huynh trong Giáo đoàn đảm nhận giảng dạy tại Trường An, Kim Long, Phú Cam và Lại Ân cho các chủng sinh trước khi vào Chủng viện. Ông cũng cho mở nhà in "Thánh Tâm" (lúc đầu gọi là Trường An ấn quán) để in sách báo, tài liệu Công giáo của Hạt Đại diện Tông Tòa Huế. Thượng thư Nguyễn Hữu Bài đã dâng cúng thửa vườn và nhà cửa để lập cơ sở này.
Năm 1937, ông cho lập trường tiểu học Trung Linh. Từ năm 1938, ông đã cải tổ Tiểu chủng viện theo chương trình mới, để đào tạo linh mục. Năm 1937, khai trương Đại chủng viện từ Bùi Chu, qua Phú Nhai, rồi tiến tới Đại chủng viện Quần Phương vào năm 1940, một chủng viện đầu tiên do giáo sĩ Việt Nam điều khiển.
Tên ông từng được đặt tên cho cho một trường Trung học tại Giáo xứ Lục Thủy, thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định, được thành lập năm 1949. Sau năm 1954, trường dời vào Nam, vẫn lấy tên là Hồ Ngọc Cẩn, với trụ sở chính thức tại Bà Chiểu, Gia Định. Sau năm 1975, trường đổi tên thành trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, đến năm 1977 đổi thành Trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu cho đến ngày nay (2013).
Ngoài ra, tên ông còn được đặt cho một con đường ở Sài Gòn từ năm 1967. Tên đường này vẫn được giữ cho đến ngày nay, thuộc địa bàn phường Tân Thành, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh (2010).
- Văn phạm La Tinh (02 cuốn)
- Văn phạm tiếng Pháp (02 cuốn). (được giải thưởng của Khâm Sứ Tòa Thánh)
- Mẹo tiếng An Nam (tức Văn phạm chữ Quốc ngữ) (2 cuốn)
- Toán pháp (02 cuốn)
- Hán tự quy giảng (Văn phạm Hán văn)
- Thường đàm nhật dụng, văn khế đơn tự.
- Luận Quốc văn (02 cuốn)
- Pháp tự khúc ca
- Tán nữ khúc ca
- Ngạn nhữ kinh thơ
- Hán Việt thường đàm (nhà in Trường An Huế, 1942)
- Văn chương thi phú An Nam (in lần thứ hai, nhà in Truyền giáo hải ngoại, Hồng Kong, 1923).
- Con muốn ở nhà Ðức Chúa Trời (In lần thứ ba, Hồng Kông, nhà in Nazareth, 1930)
- Tu viện trinh nữ.
- Tu phân minh cảnh
- Tu sĩ thần lương
- Giúp Linh mục cấm phòng (nhà in Bùi Chu, 1938)
- Tháng Trái Tim Chúa Giêsu
- Tháng Ðức Bà, tháng Thánh Giuse
- Gẫm quanh năm (dịch, 5 cuốn)
- Phước họa thị phi (3 cuốn)
- Tuồng (Bảy Mối)
- Truy tầm chân đạo (nhà in Thánh gia Bùi Chu, 1951)
- Sách cha mẹ dạy con
- Thận chung truy viễn
- Giáo nhơn hành thiện
- Triết nhơn tri kỷ
- Quê ta ở đâu?
- Bổn Ðồng ấu (sách giáo lý cho thiếu nhi)
- Tháng giáo thuyết minh (sách giáo lý cho người lớn)
Thứ tự bổ nhiệm - tấn phong giám mục[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền nhiệm: Đợt bổ nhiệm Giám mục Tiên khởi người Việt Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng 10 tháng 1 năm 1933 | Đợt bổ nhiệm Giám mục người Việt lần II Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn 11 tháng 3 năm 1935 | Kế nhiệm: Đợt bổ nhiệm Giám mục người Việt lần III Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục 8 tháng 1 năm 1938 |
Tiền nhiệm: Giám mục người Việt thứ 1 được tấn phong Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng 11 tháng 6 năm 1933 | Giám mục người Việt thứ 2 được tấn phong Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn 29 tháng 6 năm 1935 | Kế nhiệm: Giám mục người Việt thứ 3 được tấn phong Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục 4 tháng 5 năm 1938 |
- ^ “Cận cảnh Tuần Lễ Vàng năm 1945”. VnExpress. 13 tháng 10 năm 2010.
- ^ Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Công giáo. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. tr. 295.
- ^ Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Công giáo. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. tr. 297.
- ^ Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Công giáo. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. tr. 109.
No comments:
Post a Comment